Hy vọng dần lụi tàn khi thuốc men thất bại, sự cô lập đẩy bệnh nhân vào nguy hiểm. Được hỗ trợ bởi một khoản tài trợ lớn, hai nhà khoa học của Harvard đang tập trung vào việc rút ngắn khoảng cách giữa chẩn đoán và phục hồi trầm cảm.
Đối với hàng triệu người mỗi năm, trầm cảm không chỉ là một căn bệnh mà còn là một vòng lặp đầy khắc nghiệt: Đau khổ, dùng thuốc, thất bại, rồi lặp lại.
Với sự hỗ trợ từ một khoản tài trợ lớn từ tổ chức phi lợi nhuận Wellcome Leap, David Walt và Diego Pizzagalli – hai nhà khoa học của Harvard muốn phá vỡ vòng lặp đó. Và mỗi người đi theo một con đường riêng.
David Walt đang làm việc ở cấp độ vi mô, quan sát các bất thường trong tế bào có thể góp phần gây ra trầm cảm. Diego Pizzagalli tiếp cận theo cách nhìn toàn cảnh hơn, sử dụng MRI và các phương pháp khác để xác định các phương pháp điều trị tiềm năng bằng cách theo dõi hoạt động ở các vùng não quan trọng. Mục tiêu chung của họ là rút ngắn thời gian từ chẩn đoán đến khi có loại thuốc hiệu quả cho từng bệnh nhân.
“Chúng tôi lo ngại rằng khi mọi người phải trải qua cách tiếp cận thử-sai, họ sẽ mất đi hy vọng,” Pizzagalli cho biết. “Chúng tôi thực sự quan tâm đến việc đánh giá xem liệu bằng cách sử dụng các công cụ của khoa học thần kinh, chúng tôi có thể tìm ra phương pháp điều trị đúng nhanh hơn không.”
Hơn 22 triệu người trưởng thành tại Hoa Kỳ mỗi năm phải trải qua ít nhất một giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng. Trải nghiệm này cô đơn, suy nhược và nguy hiểm. Khi lo âu, mất ngủ và các triệu chứng khác xuất hiện, bệnh nhân dần xa rời gia đình và bạn bè. Cảm giác cô lập làm gián đoạn một trong những nguồn hạnh phúc và sức khỏe lớn nhất – các mối quan hệ – và gia tăng nguy cơ tự tử. Thiệt hại này cũng lan rộng ra toàn xã hội, bao gồm cả nơi làm việc ở Hoa Kỳ, gây ra gánh nặng kinh tế hơn 330 tỷ USD hàng năm.
Lần thử nghiệm đầu tiên với liệu pháp chống trầm cảm mất khoảng 12-14 tuần để có hiệu quả và chỉ có tác dụng đối với khoảng một phần ba số bệnh nhân.
Nghiên cứu cho thấy mức độ thành công khác nhau với các lần điều trị tiếp theo, với chỉ khoảng 40% bệnh nhân tìm được loại thuốc phù hợp sau lần thử thứ tư.
Liệu pháp trò chuyện có thể giúp ích, và các công nghệ mới, bao gồm kích thích thần kinh, đã cho thấy tiềm năng. Nhưng một trong những phương pháp điều trị trầm cảm phổ biến nhất – thuốc chống trầm cảm như các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs), thường được bác sĩ gia đình kê toa – lại cho kết quả không đồng nhất, một phần do quá trình lựa chọn thuốc không chính xác và mất nhiều thời gian.
“Cuối cùng thì bạn có rất nhiều người, thật sự, cần một phân tích cá nhân hóa để tìm ra nguyên nhân cơ bản của bệnh mà có thể được điều trị bằng một loại thuốc cụ thể”, Walt nói. “Hiện tại, tất cả chỉ như kiểu đoán mò, không có cơ sở khoa học vững chắc nào để xác định điều gì là đúng cho từng người. Đó là kiểu: ‘Hãy thử loại thuốc này và xem nó có hiệu quả không.’”
Mục tiêu của cả hai nhà nghiên cứu là giúp định hình một phương pháp tiếp cận chính xác hơn, hiệu quả hơn. “Chúng tôi muốn tự thuyết phục bản thân – và hy vọng là cả lĩnh vực nghiên cứu – rằng việc điều trị cá nhân hóa là khả thi trong trầm cảm”, Pizzagalli nói. “Các triệu chứng kéo dài có thể gây suy giảm nghiêm trọng và việc điều trị bằng thuốc chống trầm cảm thất bại có liên quan đến những chi phí lớn đối với cá nhân và xã hội, bao gồm cả sự mất năng suất lao động.”
Viết bằng máu
David Walt trong phòng thí nghiệm tại Viện Wyss. Ảnh của Niles Singer
Walt, giáo sư bệnh lý học và Giáo sư Hansjörg Wyss về Kỹ thuật lấy cảm hứng từ sinh học tại Trường Y Harvard, muốn biết liệu các protein nhất định trong não có thể làm sáng tỏ cách trầm cảm phát triển hay không, từ đó cho phép các nhà khoa học xác định các phương pháp điều trị tiềm năng. Ông và nhóm của mình đang nghiên cứu bốn loại tế bào chính, mỗi loại đảm nhận một chức năng khác nhau với các phân tử protein độc đáo.
“Chúng tôi kỳ vọng rằng các protein mà chúng tôi thu thập và đo lường từ bốn loại tế bào khác nhau này sẽ khác biệt ở những người mắc chứng trầm cảm nặng so với những người khỏe mạnh”, Walt nói.
Một mục tiêu nghiên cứu là các tế bào thần kinh, vốn truyền tín hiệu giữa các vùng não. Những thay đổi trong các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin có thể góp phần gây trầm cảm (các SSRIs hoạt động bằng cách tăng mức serotonin trong não). Các khu vực tập trung khác là tế bào oligodendrocyte, microglia, và astrocyte, lần lượt ảnh hưởng đến cấu trúc tế bào, phản ứng miễn dịch, và chức năng trao đổi chất.
Bất kỳ bất thường nào trong các tế bào này đều có thể làm suy yếu kết nối trong não và khiến một người dễ bị rối loạn tâm trạng hơn. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng thuốc chống trầm cảm có thể giúp não chúng ta sửa chữa và hình thành các kết nối mới giữa các tế bào bị tổn thương.
Nếu các nhà nghiên cứu có thể xác định loại tế bào nào đang bị ảnh hưởng ở bệnh nhân trầm cảm, thì cuối cùng họ sẽ có thể nhắm mục tiêu vào cơ chế cơ bản gây ra những thay đổi đó, Walt nói. Nếu đó là vấn đề liên quan đến truyền dẫn thần kinh, các chuyên gia có thể tập trung vào việc tìm kiếm các loại thuốc, bao gồm SSRIs, nhắm đến sự phát triển và điều hòa của tế bào thần kinh. Nếu vấn đề liên quan đến tế bào miễn dịch, các nhà nghiên cứu có thể cố gắng xác định các loại thuốc ảnh hưởng đến hệ miễn dịch.
Walt đã tập trung nghiên cứu vào các túi ngoại bào – các mảnh tế bào thoát ra khỏi não và vào máu của chúng ta.
“Một phần màng tế bào bao bọc tế bào tách ra khỏi tế bào thành những hạt nano rất nhỏ”, ông nói. “Những hạt nano này chứa tất cả nội dung của tế bào mà chúng đã tách ra. Và những hạt nano này có thể vượt qua hàng rào máu não vào máu ở một mức độ nào đó.”
Bằng cách so sánh máu – chứa chưa đến 1% vật chất từ não – với dịch não tủy, ông và nhóm của mình đã có thể xác định các dấu hiệu cụ thể trong các loại tế bào khác nhau này, cho phép họ cô lập túi ngoại bào trong máu.
Mục tiêu mà ông hướng tới có thể thay đổi cuộc sống.
“Nếu bạn có thể xác định được các dấu hiệu đúng trong máu, bạn có thể đưa một loại thuốc cho ai đó, và sau đó yêu cầu họ quay lại vào tuần sau, lấy máu và đo các dấu hiệu sinh học để xác định xem thuốc có hiệu quả không”, ông nói.
Bạn có thể nói: ‘Thuốc này không hiệu quả, vì các dấu hiệu của bạn vẫn y nguyên như tuần trước trước khi bạn bắt đầu uống thuốc. Chúng ta cần chuyển bạn sang một loại thuốc mới ngay lập tức”. Mục tiêu của chúng tôi là tránh để bệnh nhân phải chờ đợi sáu tháng để xem liệu một loại thuốc có hiệu quả không. Nếu làm được, điều đó có nghĩa là chúng tôi đang tiến bộ trong việc giúp bệnh nhân tìm ra phương pháp điều trị đúng, rút ngắn thời gian và giảm nguy cơ tự tử”, Walt nhấn mạnh.
Chờ đợi một bước đột phá trong chẩn đoán và điều trị trầm cảm
Diego Pizzagalli chuẩn bị cho một người tham gia nghiên cứu EEG tại Bệnh viện McLean. Ảnh của Niles Singer
Pizzagalli, giáo sư tâm thần học tại Trường Y Harvard và giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Trầm cảm, Lo Âu và Căng thẳng tại Bệnh viện McLean, đã dành cả sự nghiệp để nghiên cứu các yếu tố tâm lý, môi trường, và thần kinh liên quan đến các rối loạn tâm trạng, bao gồm cả trầm cảm nặng.
Trong dự án Wellcome Leap, phòng thí nghiệm của ông đang nghiên cứu hành vi và chức năng não để tìm các dấu hiệu có thể được sử dụng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của trầm cảm và định hướng lựa chọn phương pháp điều trị.
Công việc này dựa trên một nghiên cứu trước đó đã triển khai các bài kiểm tra nhận thức thần kinh, EEG và MRI chức năng để xác định các dấu ấn sinh học có thể dự đoán phản ứng tích cực đối với các loại thuốc được kê toa rộng rãi: thuốc chống trầm cảm không điển hình bupropion, với tên thương mại là Wellbutrin, hoặc SSRI sertraline, với tên thương mại là Zoloft. Nghiên cứu đó đã dẫn dắt nhóm nghiên cứu đến các phương pháp hình ảnh mà trong cả hai trường hợp đều dự đoán một cách đáng tin cậy phản ứng khả quan.
Giả thuyết làm việc hiện tại là MRI có thể xác định liệu SSRI hoặc loại thuốc khác có phải là con đường điều trị tốt nhất hay không.
“Chúng tôi hy vọng rằng những người có các dấu hiệu liên quan đến bupropion sẽ phản ứng rất tốt khi sử dụng bupropion, và tương tự đối với những bệnh nhân có các dấu hiệu liên quan đến sertraline”, Pizzagalli nói. Đội ngũ của ông cũng sẽ cân nhắc các đặc điểm cá nhân (tuổi tác, chủng tộc, giới tính, v.v.), đặc điểm tính cách và hiệu suất trong các bài kiểm tra tâm lý thần kinh.
MRI chức năng được ghi lại khi bệnh nhân ở trạng thái nghỉ ngơi. Các nhà nghiên cứu theo dõi các vùng não được kích hoạt.
“Các vùng não được kích hoạt bởi bất kỳ điều gì chúng ta làm: suy nghĩ, cảm xúc, động lực, v.v.”, Pizzagalli cho biết, và nói thêm: “Không phải mọi vùng não đều hoạt động một cách độc lập mà không giao tiếp với các vùng khác. Thông tin về cơ bản được truyền từ vùng này sang vùng khác”.
Việc sử dụng MRI chức năng (fMRI) đã chỉ ra rằng vỏ não cingulate trước (phía trên) và nhân accumbens (phía dưới) gửi tín hiệu cho nhau trong một mạng lưới liên quan đến độ nhạy cảm với phần thưởng và học tập.
Hai vùng mà nhóm của ông quan tâm nhất là một phần của cái gọi là hệ thống phần thưởng của não. Nhân accumbens nằm rất sâu trong não và được biết đến với vai trò trong cảm giác hứng thú và động lực; vỏ não cingulate trước rostral nằm ở thùy trán và là một điểm giao thoa quan trọng giữa nhận thức và cảm xúc.
Pizzagalli đang nghiên cứu sức mạnh của mối liên kết giữa hai vùng này, điều này có thể giúp bác sĩ quyết định giữa việc kê toa SSRI hay một loại thuốc không phải SSRI.
“Những gì chúng tôi đang làm là chuyển từ việc chỉ nhìn vào mức độ hoạt động của một vùng não đơn lẻ sang việc quan sát hoạt động trên toàn bộ mạng lưới,” ông nói.
Cả Walt và Pizzagalli đều chỉ ra rằng việc điều trị cá nhân hóa cho bệnh trầm cảm và các rối loạn não khác đã gặp nhiều thách thức vượt xa khả năng của bất kỳ phòng thí nghiệm nào. Chi phí là một trở ngại lớn, cũng như sự phức tạp sâu sắc trong từng cá nhân mắc bệnh. Nhưng việc làm rõ rằng điều trị cá nhân hóa như vậy là khả thi và đáng để theo đuổi sẽ là một bước ngoặt lớn, cả đối với bác sĩ và bệnh nhân.
“Trách nhiệm thuộc về các nhà nghiên cứu để chỉ ra liệu các phương pháp này có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ đáp ứng hay không”, Pizzagalli nói.
Cả ông và Walt đều nhanh chóng lưu ý rằng hành trình tìm ra câu trả lời chỉ mới ở giai đoạn đầu. Phòng thí nghiệm của Pizzagalli dự kiến hoàn thành dự án vào giữa hoặc cuối năm 2025. Giai đoạn đầu của sáng kiến Walt dự kiến kết thúc trong tháng này, nhưng kế hoạch lớn hơn sẽ được thực hiện trong nhiều năm.
Cuối cùng, các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ đạt được những tiến bộ lớn trong việc giành lại thời gian cho các bệnh nhân và gia đình đang phải chịu đựng sức nặng đè nén của trầm cảm.
“Nó có thể là một xét nghiệm máu, có thể là một xét nghiệm máu kết hợp với chẩn đoán hình ảnh, hoặc có thể là xét nghiệm máu kết hợp với hình ảnh và các đặc điểm hành vi nhất định,” Walt nói. “Có thể cần đến tất cả các công cụ này, hoặc một sự kết hợp, để thực sự thực hiện chẩn đoán chính xác và xác định đúng loại thuốc cho đúng người vào đúng thời điểm.”
Nguồn thông tin:
- https://news.harvard.edu/gazette/story/2024/10/how-to-fight-depression-faster/
Đọc thêm:
Nhận bản tin hàng tháng
Chúng tôi sẽ gửi cho bạn thông tin mới nhất để giúp bạn chủ động chăm sóc và quản lý sức khỏe của mình.
Thank you for subscribing to the newsletter.
Oops. Something went wrong. Please try again later.