Một chế độ ăn nhiều trái cây, rau và các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật có thể sẽ tốt hơn chế độ ăn nhiều thịt và sữa. Tuy nhiên cho đến nay, những nghiên cứu về chế độ ăn uống vẫn chưa giải thích được rõ ràng về những tác động chính xác của các loại chất béo cụ thể trong chế độ ăn uống đối với sức khỏe.
1. Ăn nhiều rau, trái cây giảm nguy cơ tử vong
Một nghiên cứu mới đã xem xét một nghiên cứu liên quan đến cách ăn chất béo từ thực vật, so với chất béo từ động vật, và những ảnh hưởng của nó đến tuổi thọ của con người. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Chế độ ăn nhiều trái cây, rau, ngũ cốc và dầu thực vật giúp bảo vệ tốt hơn với những nguy cơ gây tử vong tử vong với mọi nguyên nhân và các bệnh về tim mạch. Và lượng chất béo cơ thể tiêu thụ cũng khá quan trọng. Bởi vì những người tiêu thụ nhiều chất béo từ thực vật có nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn 9% và nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch thấp hơn 14% so với những người ăn ít rau xanh, trái cây.
Mặt khác, những người tiêu thụ nhiều chất béo từ động vật, bao gồm chất béo trong thịt, các sản phẩm từ sữa và trứng, có nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân và tử vong do bệnh tim mạch cao hơn những người ăn ít loại thực phẩm này. So sánh những người tiêu thụ nhiều chất béo có nguồn gốc động vật với những người tiêu thụ ít cho thấy những người ở nhóm sử dụng chất béo động vật nhiều có nguy cơ tử vong cao hơn 16% và nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn 14%.

2. Dữ liệu từ Nghiên cứu Sức khỏe dài hạn
Nghiên cứu Sức khỏe và Chế độ ăn uống của Viện Y tế Quốc gia-AARP được thực hiện với sự tham gia của hơn 400.000 người. Trong nhóm đối tượng được sử dụng để nghiên cứu về chất béo trong chế độ ăn, có số lượng nam giới nhiều hơn nữ giới và độ tuổi trung bình là 61. Nghiên cứu thực hiện từ 1995 đến 2019.
Những đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ thực hiện trả lời bảng hỏi đã được chuẩn bị trước từ nhóm nghiên cứu về nội dung liên quan đến thói quen ăn uống, cùng với danh sách 124 loại thực phẩm và khẩu phần ăn hàng ngày. Thực hiện tính tổng lượng chất béo trong chế độ ăn uống bao gồm cả nguồn thực vật (như ngũ cốc, hạt, đậu và dầu thực vật) và nguồn động vật (như thịt đỏ và thịt trắng, thực phẩm từ sữa và trứng).
Trong suốt 24 năm theo dõi, kết quả cho thấy có 185.111 ca tử vong đã được ghi nhận, bao gồm 58.526 ca do bệnh tim mạch (45.634 ca do bệnh tim và 10.877 ca do đột quỵ). Nhóm nghiên cứu thực hiện đánh giá mối liên quan giữa tử vong với chế độ ăn đã được thu thập từ bảng hỏi. Từ đó nhận định yếu tố nguy cơ và mức độ rủi ro của tử vong liên quan đến chế độ ăn uống. Trong quá trình thực hiện phân tích có thực hiện điều chỉnh một số yếu tố khác có thể góp phần gây ra nguy cơ tử vong.
Ngoài ra, nhóm tác giả còn đánh giá mối liên quan giữa việc tiêu thụ chất béo trong các nhóm thực phẩm và nguy cơ tử vong. Chẳng hạn như, những thực phẩm thực vật, thì cho kết quả là lượng chất béo cao từ các loại đậu không có mối liên quan đến nguy cơ tử vong.
Tiêu thụ nhiều chất béo hơn từ các sản phẩm từ sữa và trứng cho thấy nguy cơ tử vong nói chung tăng lên, bao gồm cả các bệnh tim mạch, trong khi ăn nhiều chất béo hơn từ thịt trắng có liên quan đến nguy cơ tử vong thấp hơn. Hay chất béo từ thịt đỏ liên quan tăng nguy cơ tử vong; ngược lại, lượng chất béo có nhiều trong cá không có mối liên quan đáng kể đến việc tăng nguy cơ tử vong nói chung hoặc tử vong do các bệnh về tim mạch.
3. Liên kết đến đặc điểm cá nhân
Nhóm nghiên cứu cũng xem xét mối liên quan giữa việc thay đổi chế độ ăn uống và nguy cơ tử vong. Kết quả nghiên cứu cho rằng, chỉ cần thay thế 5% lượng calo từ tổng lượng mỡ động vật, mỡ thịt đỏ, mỡ sữa hoặc mỡ trứng bằng cùng một lượng mỡ thực vật thì có liên quan đến nguy cơ tử vong thấp hơn từ 4% đến 24% và nguy cơ tử vong do các bệnh về tim mạch thấp hơn từ 5% đến 30%.
Một điều nữa được nhận đính là việc thay thế chất béo có nguồn gốc thực vật bằng cá và mỡ thịt trắng không làm giảm nguy cơ tử vong.
Lý do để giải thích kết quả trên chính là do các mảng bám mỡ có thể tích tụ trong động mạch trong một thời gian, và thay đổi chế độ ăn uống có thể có tác động rất khác nhau đến sức khỏe tim mạch. Điều này sẽ tùy thuộc vào thời điểm thay đổi chế độ ăn của mỗi người. Theo Walter Willett, MD, giáo sư về dịch tễ học và dinh dưỡng tại Trường Y tế Công cộng Harvard T.H. Chan cho biết phải mất một thời gian dài để các mảng bám này giảm đi, vì vậy, càng sớm chuyển sang chế độ ăn nhiều thực vật thì càng tốt.
Đồng tác giả nghiên cứu Demetrius Albanes, MD, nhà nghiên cứu cao cấp tại Phân khoa Dịch tễ học và Di truyền học Ung thư của Viện Ung thư Quốc gia, cũng có quan điểm tương tự với giáo sư Willett. Ông nhận định rằng: Có lẽ phải mất một thời gian dài để đảo ngược các mảng bám tim mạch. Vì vậy, tốt hơn là chúng ta nên thay đổi chế độ ăn uống sớm hơn theo lời khuyên của bác sĩ lâm sàng, đồng thời tránh các loại chế độ ăn kiêng khắc nghiệt và cực đoan.
4. Những hạn chế có thể có của nghiên cứu
Giáo sư Willett cho biết, một nhược điểm lớn của bài báo là nghiên cứu NIH-AARP cơ bản chỉ hỏi đối tượng tham gia về chế độ ăn uống theo bảng hỏi lập sẵn. Một số người trong nghiên cứu chắc chắn đã thay đổi chế độ ăn uống trong 24 năm theo dõi, nhưng những thay đổi đó không được đưa vào dữ liệu và sử dụng trong nghiên cứu về chất béo trong chế độ ăn uống. Do đó, kết quả nghiên cứu có thể có nhiều lỗi khi đưa vào các mô hình phân tích, đồng thời làm suy yếu mối liên hệ giữa chế độ ăn uống của những người tham gia và số lượng đối tượng tử vong của nghiên cứu.
Một vấn đề khác với những phát hiện của nghiên cứu, Giáo sư Willett cho biết, vào những năm 1990, khi những đối tượng này tham gia nghiên cứu,thì họ sẽ sử dụng chất béo chuyển hóa đã bắt đầu được loại bỏ khỏi các loại thực phẩm có chứa dầu thực vật. Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm đã công bố cấm hydro hóa một phần dầu thực vật, là một loại chế biến thực phẩm tạo ra chất béo chuyển hóa, vào năm 2018. Vì hầu hết các loại thực phẩm ở thời kỳ này đều có nguồn gốc thực vật không còn được hydro hóa một phần nữa. Khi đó, sẽ làm tăng thêm sai số có thể lượng chất béo thực vật lên tới 30% – 40% chất béo thực vật trong chế độ ăn cơ bản. Những chất béo này đều là chất béo chuyển hóa và những chất này làm tăng nghiêm trọng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, điều này sẽ đánh giá thấp rất nhiều lợi ích của chất béo thực vật.
Mặc dù, nhóm nghiên cứu cho biết đã kiểm soát thống kê đối với việc giảm chất béo chuyển hóa, Ngoài ra, giáo sư Willet còn nhận định rằng, họ chưa thể thực hiện điều này tốt vì cơ sở dữ liệu thành phần thực phẩm không theo kịp những thay đổi.
Giáo sư còn cho biết các mối tương quan mà nhóm mô tả trong nghiên cứu sẽ dẫn đến việc đánh giá thấp khoảng 2 lần so với tác động của chế độ ăn uống đối với tỷ lệ tử vong. Tổng hợp tất cả các nguồn dữ liệu và thông tin, nhóm thực hiện đánh giá cho kết quả có thể giảm tác động của chế độ ăn uống khoảng 4 lần hoặc thậm chí hơn.
Albanes nhận định rằng phương pháp luận của nghiên cứu là hợp lệ và hầu hết các nghiên cứu này chỉ có thể thu thập dữ liệu về chế độ ăn uống ở mức cơ bản. Và những mối liên quan đến thay đổi về chế độ ăn uống trong những năm qua
Trong nghiên cứu này có thể có thêm một số nhiễu vào ước tính kết quả của nghiên cứu. Chẳng hạn như: vấn đề về chất béo chuyển hóa có thể tác động tới thời gian khỏi bệnh hoặc quá trình theo dõi và tỷ lệ tử vong. Những vấn đề này vẫn đang được tiếp tục phát triển và đánh giá một cách rõ ràng hơn.
Trong mọi trường hợp, Albanes cho biết, nếu tác động của việc ăn nhiều chất béo có nguồn gốc thực vật hoặc động vật đối với nguy cơ tử vong được đánh giá thấp trong nghiên cứu, thì điều đó chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của những phát hiện chính của nghiên cứu.
5. Khuyến nghị về chế độ ăn uống
Albanes tin rằng dữ liệu của nghiên cứu về nguy cơ tử vong ở nhiều nhóm thực phẩm khác nhau đủ chắc chắn để đưa ra các khuyến nghị về chế độ ăn uống. Trong số các nguồn chất béo có nguồn gốc thực vật mà ông khuyến nghị, ngoài trái cây và rau quả, còn có chất béo từ thực phẩm ngũ cốc (bánh mì, mì ống, v.v.) và dầu thực vật, bao gồm dầu ô liu, dầu cải và dầu ngô.
Willett chỉ ra rằng ngũ cốc không có nhiều chất béo ngoại trừ ở trong mầm của các hạt ngũ cốc.. Hầu như tất cả các loại thực vật đều có chất béo để bảo vệ hạt và chất béo này còn bao gồm cả chất chống oxy hóa.
Albanes đồng ý rằng chất béo từ ngũ cốc sẽ bao gồm tất cả các loại thực phẩm ngũ cốc được thu thập trong bảng câu hỏi ban đầu. Thực phẩm là bánh mì ngũ cốc nguyên hạt bao gồm phần mầm, có mối liên quan đến với lúa mì tinh chế hay bánh mì trắng. Mặc dù nghiên cứu này chưa rõ về tác dụng của bánh mì ngũ cốc nguyên hạt so với bánh mì chế biến, nhưng kết quả cũng đã nhận định sự thay đổi này có thể mang lại nhiều điều tốt hơn cho sức khỏe của bạn.
Nguồn thông tin: Webmd
Nhận bản tin hàng tháng
Chúng tôi sẽ gửi cho bạn thông tin mới nhất để giúp bạn chủ động chăm sóc và quản lý sức khỏe của mình.
Thank you for subscribing to the newsletter.
Oops. Something went wrong. Please try again later.
